In bài viết

Bài cuối: Không chỉ phản ánh hạ tầng, mà còn đo năng lực phát triển toàn diện

(Chinhphu.vn) - Không chỉ phân loại theo mức độ khó khăn, Nghị định 272/2025/NĐ-CP còn chú trọng đánh giá năng lực cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản, từ đó bảo đảm chính sách dân tộc đến đúng nơi, phát huy hiệu quả trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.

Bài cuối: Không chỉ phản ánh hạ tầng, mà còn đo năng lực phát triển toàn diện- Ảnh 1.

Giai đoạn 2021-2025, sự thiếu hụt các chỉ số dịch vụ xã hội ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi chưa được "định lượng" cụ thể trong Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg. Hạn chế này đã được khắc phục tại Nghị định số 272/2025/NĐ-CP ngày 16/10/2025.

Không chỉ đánh giá dựa trên tỷ lệ hộ nghèo, hạ tầng thiết yếu mà trình độ phát triển của từng xã còn được đo đếm cụ thể sự thụ hưởng của người dân về điện lưới, nước sạch, internet, vệ sinh môi trường,… Cách tiếp cận này giúp xác định đúng nơi cần hỗ trợ, đầu tư trúng lĩnh vực, đồng thời đánh giá năng lực quản trị của chính quyền địa phương, tạo nền tảng để các xã vùng đồng bào DTTS và miền núi phát triển bền vững.

Bài cuối: Không chỉ phản ánh hạ tầng, mà còn đo năng lực phát triển toàn diện- Ảnh 2.

Trong Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg, điện lưới quốc gia, nước sinh hoạt hợp vệ sinh không được dùng làm căn cứ để xác định trình độ phát triển của xã vùng đồng bào DTTS và miền núi. Nhưng đây là những dịch vụ thiết yếu nên thường xuyên, liên tục được ưu tiên bố trí vốn để đầu tư.

Giai đoạn 2021-2025, từ vốn Chương trình MTQG 1719, toàn vùng đã có 442 công trình điện và 809 công trình nước sinh hoạt tập trung được xây mới; 479.358 hộ được hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán.

Với sự đầu tư đó, dự kiến đến hết năm 2025, tỷ lệ hộ gia đình ở vùng đồng bào DTTS và miền núi được sử dụng điện lưới quốc gia đạt 99%; tỷ lệ hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 93%.

Nhưng điều này cũng đồng nghĩa, hiện địa bàn này vẫn còn 1% hộ chưa tiếp cận điện lưới quốc gia, 7% hộ chưa được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Đây đều là những gia đình sinh sống ở những địa bàn có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn.

Để giải quyết triệt để tỷ lệ đang thiếu hụt này, Nghị định số 272/NĐ-CP lấy tiêu chí điện, nước sinh hoạt làm một trong những căn cứ để xác định xã khu vực 3, từ đó tiếp tục đầu tư. Cả 2 tiêu chí này được xây dựng với tư duy chính sách phát triển, ngoài bảo đảm về lượng còn có yêu cầu về chất.

Bài cuối: Không chỉ phản ánh hạ tầng, mà còn đo năng lực phát triển toàn diện- Ảnh 3.

Đối với nước sinh hoạt, hàng chục năm qua, chính sách hỗ trợ nhu cầu thiết yếu này đã được triển khai, theo các Quyết định: 134/2004/QĐ-TTg, 755/QĐ-TTg, 2085/QĐ-TTg,.. Dài hơi nhất là Chương trình 135, với thời gian thực hiện từ 1998-2020.

Nhưng các chính sách mới chỉ hướng tới "phủ sóng" nước sinh hoạt hợp vệ sinh, chưa vươn tới nước sạch đạt quy chuẩn. Vì vậy, vùng đồng bào DTTS và miền núi dù có 93% hộ được sử dụng nước sinh hoạt, nhưng tỷ lệ nước sạch đạt quy chuẩn còn thấp.

Tại thời điểm tháng 7/2024, còn 13 dân tộc có tỷ lệ hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh dưới 90%, gồm: Nùng (89,3), Mông (83%), Dao (86,6%), Ngái (89,3%), Xơ Đăng (84,1%), Tà Ôi (87,9%%), Kháng (88,7%), Lào (88,3%), La Ha (88%), La Hủ (81%), Cờ Lao (87,4%), Bố Y (85,2%), Si La (81,6%). Có 3 dân tộc dưới 80%, gồm: Hà Nhì (78,5%), Co (75,5%%), Pu Péo (71,8%). Đặc biệt, có 5 dân tộc có tỷ lệ hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh thấp, gồm: Cống (69,8%), Bru vân Kiều (62,6), Chứt (65,4%), Pà Thẻn (59,9%), Lô Lô (31,2%).

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện khoảng 68% hộ nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn. Nhưng tỷ lệ này ở vùng Tây Nguyên chưa đến 39%; miền núi phía Bắc chỉ khoảng 44%; vùng Bắc Trung bộ chưa tới 35%.

Vì thế, Nghị định 272/2025/NĐ-CP lấy "tỷ lệ hộ gia đình được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn dưới 30%" để xác định tình trạng khó khăn của xã. Sự chuyển đổi về chất trong tiêu chí nước sinh hoạt này đồng thời cũng là công cụ để đánh giá tư duy quản trị của chính quyền các cấp, từ hành chính sang phục vụ theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.

Bài cuối: Không chỉ phản ánh hạ tầng, mà còn đo năng lực phát triển toàn diện- Ảnh 4.

Tương tự là tiêu chí điện, Nghị định số 272/205/NĐ-CP đưa "tỷ lệ hộ gia đình có hợp đồng mua bán điện dưới 95%" làm căn cứ nhận diện xã khu vực 3. Việc lấy hợp đồng mua bán điện để "đo" khó khăn của xã cho thấy rõ tư duy quản trị mới ở trong thực hiện chính sách dân tộc, vừa khoa học, vừa "rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm".

Theo luật sư Nguyễn Cao Thông, Trưởng Văn phòng Luật Cao Thông và Cộng sự (Đoàn Luật sư Hà Nội), điện lưới quốc gia là một trong những dịch vụ cơ bản nhất, cùng với giao thông, nước sinh hoạt, thông tin, y tế, giáo dục…

Theo kết quả điều tra kinh tế-xã hội của 53 DTTS lần thứ 3, tại thời điểm tháng 7/2024, vùng đồng bào DTTS và miền núi có 37.744 đơn vị hành chính cấp thôn; trong đó có 208 thôn chưa có điện và 298 thôn có điện nhưng không phải là điện lưới quốc gia.

"Khi dưới 95% hộ có hợp đồng mua bán điện, điều đó cho thấy hạ tầng năng lượng chưa đầy đủ, người dân chưa tiếp cận dịch vụ thiết yếu. Vì vậy, tiêu chí đưa ra giúp Nhà nước nhận diện đúng địa bàn thiếu nền tảng phát triển để ưu tiên đầu tư", ông Thông nhìn nhận.

Internet - Thước đo năng lực chính quyền phục vụ

Từ ngày 01/7/2025, cùng với sáp nhập đơn vị hành chính, tiếp tục tinh gọn biên chế thì cả nước chính thức vận hành chính quyền địa phương 2 cấp. Điều này đặt ra yêu cầu cao về chuyển đổi số trong quản lý, cung ứng dịch vụ công và triển khai chính sách dân tộc.

Tuy nhiên, hiện vẫn còn rất nhiều thôn, bản vùng đồng bào DTTS và miền núi chưa được phủ sóng dịch vụ internet. Theo kết quả điều tra kinh tế-xã hội của 53 DTTS lần thứ 3, tại thời điểm tháng 7/2024, toàn vùng còn 908 thôn, bản "trắng" dịch vụ internet, chiếm khoảng 3,4% trong tổng số đơn vị hành chính cấp thôn toàn vùng.

Thực trạng "lõm sóng" đã được Bộ Khoa học và Công nghệ ghi nhận là 1 trong 9 vấn đề tồn tại hiện nay. Trong báo cáo tháng 8/2025 về tình hình thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, Bộ chỉ rõ, việc vẫn còn các điểm "lõm sóng" ảnh hưởng đến hoạt động thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ công trực tuyến tại địa phương vận hành theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.

Bài cuối: Không chỉ phản ánh hạ tầng, mà còn đo năng lực phát triển toàn diện- Ảnh 5.

"Điểm nghẽn" này được kỳ vọng sẽ được tháo gỡ từ Nghị định số 272/2025/NĐ-CP. Tiêu chí tỷ lệ thôn có dịch vụ truy cập internet di động hoặc internet băng rộng cố định dưới 95% để phân định trình độ phát triển của xã vùng đồng bào DTTS và miền núi là cơ sở pháp lý để ưu tiên đầu tư cho địa bàn còn "lõm sóng".

Thực tế, tiêu chí Internet trong đánh giá xã khó khăn là thước đo đa chiều. Đây vừa là công cụ để các cơ quan hành chính vận hành trơn tru, minh bạch và kết nối hiệu quả; internet còn là đòn bẩy để người dân phát triển kinh tế, tiếp cận thông tin và dịch vụ thiết yếu.

Bản Hùn, xã Chiềng Cơi, tỉnh Sơn La là nơi sinh sống của 228 hộ với 1.153 nhân khẩu. Theo ông Tòng Văn Yên, Trưởng bản Hùn, từ năm 2024, bản đã lặp đặt wifi miễn phí tại nhà văn hóa bản, giúp người dân truy cập Internet, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, nâng cao đời sống tinh thần.

"Bản Hùn hiện đã đạt 16 tiêu chí, 44 chỉ tiêu bản chuẩn nông thôn mới và đặc biệt là 7/7 tiêu chí bản nông thôn mới kiểu mẫu về văn hóa nông thôn. Thu nhập bình quân đầu người của bản hiện đạt 60 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 1,3%", ông Yên phấn khởi cho biết.

Cũng như bản Hùn, các bản làng vùng đồng bào DTTS và miền núi đang dần bắt nhịp với cuộc sống số. Nhiều hộ đã ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, quảng bá sản phẩm thủ công, thậm chí tham gia thương mại điện tử để mở rộng đầu ra.

Không chỉ giúp cải thiện thu nhập, internet còn tạo điều kiện để cộng đồng bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, tổ chức các lễ hội, giới thiệu nét đặc trưng văn hóa dân tộc.

Vì vậy, việc đưa tiêu chí internet vào phân định xã khó khăn trong Nghị định số 272/2025/NĐ-CP không chỉ phản ánh mức độ phát triển hạ tầng, mà còn là thước đo năng lực phát triển toàn diện, bảo đảm không bỏ sót vùng khó trong kỷ nguyên số.

Sơn Hào