In bài viết

Bài 2: 'Đo' mức độ khó khăn từ hạ tầng để tìm giải pháp

(Chinhphu.vn) - Nhìn vào hạ tầng có thể “đo” mức độ khó khăn của từng địa bàn. Hạ tầng là tiêu chí trọng tâm để nhận diện xã đặc biệt khó khăn theo quy định tại Nghị định số 272/2025/NĐ-CP.

Bài 2: 'Đo' mức độ khó khăn từ hạ tầng để tìm giải pháp- Ảnh 1.

Trong Nghị định số 272/2025/NĐ-CP, hạ tầng tiếp tục là một trong những tiêu chí để phân định trình độ phát triển của các xã vùng đồng bào DTTS và miền núi. Với cách tiếp cận đa chiều, nhóm tiêu chí về hạ tầng trong Nghị định số 272/2025/NĐ-CP được kỳ vọng khắc phục hạn chế trong xây dựng, ban hành, thực thi chính sách dân tộc trong tình hình mới.

Hạ tầng chưa "nối mạch" phát triển

Giai đoạn 2021-2025, theo Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg ngày 12/11/2020, cùng với tiêu chí tỷ lệ hộ nghèo thì tiêu chí "có đường giao thông từ trung tâm huyện đến trung tâm xã dài trên 20 km, trong đó có trên 50% số km chưa được rải nhựa hoặc đổ bê-tông" là 1 trong 4 tiêu chí bổ trợ để xác định xã khu vực 3.

Tuy nhiên, tiêu chí này chưa phản ánh đầy đủ thực trạng phát triển ở các xã vùng đồng bào DTTS và miền núi. Trên thực tế, dù được đầu tư qua nhiều chương trình, nhưng nhiều xã vẫn "đứt gãy" hạ tầng giao thông.

Xã Khang Ninh trước sáp nhập thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn (nay là xã Ba Bể, tỉnh Thái Nguyên). Giai đoạn 2016-2020, theo Quyết định số 582/QĐ-TTg, Khang Ninh là xã khu vực 2, nhưng có 8/12 thôn đặc biệt khó khăn.

Trong giai đoạn này, vốn Chương trình 135 (dự án thành phần của Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững 2016-2020) đã giúp Khang Ninh từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng thiết yếu. Năm 2020, Khang Ninh được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (NTM), từ năm 2021 trở thành xã khu vực 1.

Giai đoạn 2021-2025, theo Quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Ủy ban Dân tộc (nay là Bộ Dân tộc và Tôn giáo), Khang Ninh có 6/12 thôn đặc biệt khó khăn (gồm các thôn: Nà Cọ, Nà Niềng, Nà Hàn, Củm Pán, Khuổi Luông, Đồn Đèn). Nhưng là xã khu vực 1 nên cả 6 thôn không thuộc diện đầu tư của Chương trình MTQG 1719.

Dòng vốn đầu tư bị "đứt gãy" nên Khang Ninh gặp khó khăn trong hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Toàn xã có 24km đường trục thôn, liên thôn thì mới cứng hóa trên 16km; có 9 tuyến đường ngõ xóm với tổng chiều dài hơn 5km thì mới cứng hóa khoảng 50%.

Khang Ninh được tỉnh Bắc Kạn (cũ) giao chỉ tiêu "về đích" NTM nâng cao năm 2024. Nhưng đến thời điểm sáp nhập với các xã: Cao Thượng, Nam Mẫu thành xã Ba Bể, tỉnh Thái Nguyên (ngày 1/7/2025), Khang Ninh vẫn "lỗi hẹn" mục tiêu này.

"Thế bí" của những xã "đủ chuẩn" NTM nhưng chưa "đủ lực" như Khang Ninh kỳ vọng sẽ được tháo gỡ trong giai đoạn 2026-2030, từ Nghị định số 272/2025/NĐ-CP. Với 12 tiêu chí rõ ràng, thực chất, Nghị định số 272/2025/NĐ-CP là căn cứ pháp lý để bảo đảm địa bàn nào còn khó khăn thì vẫn được tiếp tục hỗ trợ.

Theo đó, xã khu vực 3 là xã đáp ứng 6 tiêu chí trở lên (hoặc có từ 03 tiêu chí trở lên, đồng thời có từ 50% thôn đặc biệt khó khăn trở lên). Trong đó có tiêu chí: "Có dưới 80% đường xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa bảo đảm ô tô đi lại thuận tiện quanh năm theo tiêu chuẩn kỹ thuật quy định tại pháp luật đường bộ, hoặc đã được nhựa hóa, bê tông hóa nhưng xuống cấp nghiêm trọng, có thể gây ra tình trạng khó đi lại, mất an toàn, đặc biệt vào mùa mưa với tỷ lệ trên 50%".

Bài 2: 'Đo' mức độ khó khăn từ hạ tầng để tìm giải pháp- Ảnh 2.

Thủy lợi - Tiêu chí đáp ứng "trao cân câu, không trao xâu cá"

Giai đoạn 2021-2025, căn cứ vào tiêu chí phân định theo Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg, toàn vùng DTTS và miền núi có 1.551/3.434 xã khu vực 3, được phê duyệt tại Quyết định số 861/QĐ-TTg. Đây là địa bàn được đầu tư trực tiếp từ Chương trình MTQG 1719.

Tiếp nối các giai đoạn trước, vốn Chương trình MTQG 1719 đã ưu tiên đầu tư hạ tầng giao thông. Theo báo cáo tổng kết của Bộ Dân tộc và Tôn giáo, tính đến tháng 8/2025, toàn vùng đã đầu tư 6.018 công trình giao thông nông thôn; nhựa hoá, bê tông hoá hoặc cứng hoá 8.673 km đường giao thông.

Tuy nhiên, giai đoạn 2021-2025, tiêu chí thủy lợi chưa được sử dụng để phân định mức độ khó khăn, trong khi hệ thống kênh mương nội đồng ở nhiều nơi còn thiếu và yếu. Đây là một thiếu sót, bởi thủy lợi là một trong những công trình hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất, bảo đảm nguyên tắc "trao cần câu, không trao xâu cá".

Ở xã Điền Lư (trước vận hành chính quyền địa phương 2 cấp thuộc huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa), năm 2003, tuyến kênh mương Đại Lạn dài trên 2,4km được đầu tư, cấp nước tưới cho khoảng 32ha đất nông nghiệp của thôn Điền Lý.

Sau hàng chục năm vận hành, chưa một lần được sửa chữa, từ năm 2023 đến nay, khoảng 1,3km tuyến kênh đã hư hỏng, khó thực hiện chức năng cấp nước. Do Điền Lư là xã khu vực 2, Điền Lý không phải là thôn đặc biệt khó khăn nên không thuộc diện đầu tư của Chương trình MTQG 1719.

Không riêng thôn Điền Lý mà ở vùng đồng bào DTTS và miền núi, hệ thống kênh mương nội đồng rất thiếu và yếu, tỷ lệ đất nông nghiệp được tưới còn thấp. Trước khi Chương trình MTQG 1719 vận hành, theo số liệu của Bộ Dân tộc và Tôn giáo, chỉ khoảng 23,4% diện tích đất nông nghiệp toàn vùng được tưới tiêu, riêng khu vực miền núi phía Bắc chỉ đạt 11%.

Trong khi đó, để đạt chuẩn NTM giai đoạn 2021-2025, các xã đều phải đạt tối thiểu 80% diện tích đất nông nghiệp được tưới, tiêu nước chủ động. "Hụt" tiêu chí thủy lợi ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng NTM ở vùng đồng bào DTTS và miền núi, toàn vùng vẫn có nhiều tỉnh có tỷ lệ xã đạt chuẩn dưới 30%, trong đó tỉnh Cao Bằng chưa có xã nào "về đích".

Để hỗ trợ các xã vùng đồng bào DTTS và miền núi xây dựng NTM, đặc biệt là nâng cấp hạ tầng phục vụ sản xuất, giai đoạn 2026-2030 tiêu chí thủy lợi được sử dụng làm căn cứ phân định xã theo trình độ phát triển. Theo Nghị định số 272/2025/NĐ-CP, tỷ lệ đất sản xuất nông nghiệp được tưới, tiêu nước chủ động dưới 50% được xác định là một trong các tiêu chí quan trọng để xếp xã vào khu vực 3.

Bài 2: 'Đo' mức độ khó khăn từ hạ tầng để tìm giải pháp- Ảnh 3.

Giai đoạn 2026-2030, lĩnh vực giáo dục tiếp tục là một trong những thước đo trình độ phát triển của các xã vùng đồng bào DTTS và miền núi, nhưng có sự khác biệt rất lớn so với giai đoạn trước.

Trong Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg, tỷ lệ người DTTS trong độ tuổi từ 15 đến 60 chưa biết đọc, biết viết tiếng phổ thông là tiêu chí để nhận diện tình trạng khó khăn của các xã.

Còn Nghị định số 272/2025/NĐ-CP quy định, xã có dưới 50% số trường học đạt chuẩn cơ sở vật chất mức độ 1 hoặc chưa có nhà ở nội trú, hoặc có nhưng đáp ứng dưới 80% đối với trường phổ thông dân tộc nội trú và dưới 60% đối với trường phổ thông dân tộc bán trú sẽ được tính là tiêu chí khó khăn để xác định xã khu vực 3.

Việc tiếp cận từ góc độ cơ sở vật chất trường lớp và nhà nội trú có ý nghĩa vượt ra ngoài phạm vi hạ tầng thuần túy. Tiêu chí này cho thấy tư duy chính sách mang tính chiến lược, muốn phát triển bền vững vùng đồng bào DTTS và miền núi thì phải bảo đảm điều kiện học tập cho học sinh.

Dù đã được đầu tư nhưng hiện cơ sở vật chất trường lớp, nhất là nhà nội trú cho học sinh vùng đồng đồng bào DTTS và miền núi, khu vực vực biên giới vẫn chưa đáp ứng nhu cầu. Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chỉ tính riêng tại 248 xã biên giới trên đất liền, thời gian tới cần đầu tư 6.118 phòng học đạt chuẩn, 6.692 phòng học bộ môn, 7.982 nhà ở nội trú học sinh…

Bài 2: 'Đo' mức độ khó khăn từ hạ tầng để tìm giải pháp- Ảnh 4.

Đây là vấn đề cấp bách nên ngày 18/7/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Thông báo số 81-TB/TW thống nhất chủ trương đầu tư xây dựng 248 trường phổ thông nội trú liên cấp ở 248 xã biên giới đất liền, trước mắt thí điểm hoàn thành 100 trường mới xây hoặc cải tạo trong năm 2025.

Ngày 09/11, các địa phương có xã biên giới đã đồng loạt khởi công xây dựng các trường phổ thông dân tộc nội trú, phấn đấu đưa vào sử dụng từ năm học 2026-2027. Việc đồng loạt khởi công các trường dân tộc nội trú chuyển tải cam kết của Đảng, Nhà nước trong mục tiêu nâng cao dân trí, tạo nguồn cán bộ người DTTS, cải thiện đời sống, giữ vững chủ quyền biên giới bằng sức mạnh của giáo dục.

Nghị định số 272/2025/NĐ-CP ngày 16/10/2025 đưa ra 12 tiêu chí để phân định xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi theo trình độ phát triển. Theo đó, xã khu vực 3 là xã có từ 06 tiêu chí trở lên; hoặc có từ 03 tiêu chí trở lên, đồng thời có từ 50% thôn đặc biệt khó khăn trở lên. Đối với xã khu vực 1, Nghị định 272/2025/NĐ-CP không lấy tiêu chí đã đạt chuẩn nông thôn mới như giai đoạn 2021-2025 làm căn cứ, mà xác định là xã đáp ứng dưới 03 tiêu chí; xã khu vực 2 là xã có từ 03 đến 05 tiêu chí.

Bài cuối: Thước đo mới xác định xã khó khăn

Sơn Hào